Mô hình sản xuất giống cá dĩa bằng phương pháp sinh học

Mô hình chọn được loại thức ăn phù hợp để thay thế nhớt cá dĩa bố mẹ, chủ động trong việc sinh sản nhân tạo để rút ngắn thời gian tái thành thục của cá bố mẹ và cung cấp cá con với số lượng lớn cho thị trường cá cảnh.
Tình hình sản xuất và tiêu thụ
 
Cá cảnh là đối tượng nuôi tiềm năng, phù hợp với chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, xây dựng và phát triển nông nghiệp đô thị tại TP.HCM. Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM, số lượng cá cảnh sản xuất tính đến tháng 9/2019 là 158 triệu con, cao hơn so với năm 2018 (137 triệu con), đạt 115,32% so với cùng kỳ. Các cơ sở sản xuất cá cảnh tập trung ở huyện Bình Chánh, Củ Chi, quận 12 và một số cơ sở ở quận 9, Gò Vấp, Bình Thạnh, Thủ Đức.
 
Sản lượng cá cảnh xuất khẩu tính đến nay là 16.163.270 con, đạt 106,1% so với 9 tháng năm 2018 (15.227.542 con). Kim ngạch tính đến nay là 18.145.477 USD, đạt 104,9% so với 9 tháng năm 2018 (17.298.859 USD). Thị trường xuất khẩu chủ yếu là châu Âu (54,22%), châu Á (28,24%), châu Mỹ (14,67%), Trung Đông (chiếm 1,06%), Nam Phi (chiếm 1,83%) với khoảng 50 loài có giá trị kinh tế cao như cá chép Nhật, bảy màu, hòa lan, cá dĩa, cá xiêm, ông tiên, tứ vân, hồng kim,...
 
Trong đó, cá dĩa là đối tượng cá cảnh có giá trị xuất khẩu cao, là đối tượng nuôi chủ lực của TP.HCM. Việc sản xuất giống cá dĩa đã đem lại những hiệu quả kinh tế cho người dân và góp phần thúc đẩy ngành cá cảnh của Thành phố phát triển. Các sơ sở sản xuất cá dĩa tập trung chủ yếu ở quận Gò Vấp và huyện Củ Chi.
 
Tuy nhiên, việc sản xuất giống cá dĩa vẫn đang gặp một số khó khăn như chưa chủ động được nguồn thức ăn cho cá; khâu ương nuôi còn phụ thuộc vào tập tính chăm sóc con truyền thống; ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sinh sản nhân tạo cá dĩa còn hạn chế, không chủ động trong sản xuất giống với số lượng lớn; phòng và trị bệnh cho cá chưa hiệu quả;...
 
Về thức ăn cho cá dĩa, theo nhóm nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao, hiện nay đa phần là sử dụng thức ăn tự nhiên, nguồn chủ yếu là trùn chỉ, bo bo,… được khai thác ở dọc các kênh rạch của TP.HCM. Tuy nhiên, nhược điểm của trùn chỉ chính là một trong những nguồn mang mầm bệnh cho cá cũng như cho môi trường nuôi cá (do trùn sống ở môi trường nước bẩn, kênh rạch, nước thải sinh hoạt); nguồn cung cấp không ổn định, ảnh hưởng rất lớn đến nguồn thức ăn của cá. Thực tế, lượng trùn chỉ vớt được trong ngày có giới hạn nên không thể mở rộng quy mô sản xuất cá. Giá mua trùn chỉ cũng mang tính độc quyền nên thường tăng cao vào những ngày khan hiếm, làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất.
 
Bên cạnh đó, để chống ô nhiễm môi trường, người ta thực hiện nạo vét bùn, làm sạch cống rãnh, dẫn đến hạn chế môi trường sống của trùn chỉ hoặc phun xịt các loại thuốc chống ô nhiễm làm tiêu diệt trùn. Do vậy, số lượng trùn chỉ ngày càng giảm.
 
Về khâu ương nuôi, hiện còn phụ thuộc vào tập tính chăm sóc con truyền thống làm chậm quá trình tái thành thục dẫn đến số lượng con giống nhỏ lẻ không đủ cung cấp cho thị trường. Thời gian ương nuôi kéo dài, lâu thu hồi vốn, các trại dần chuyển đổi sang các đối tượng có vòng đời ương nuôi ngắn, nhanh thu hồi vốn và lợi nhuận.
 
Tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao, cá dĩa được bắt đầu nuôi từ năm 2006, hiện là đối tượng cá cảnh nuôi và sản xuất chủ lực của Trung tâm. Tuy nhiên, trong sinh sản nhân tạo cá dĩa còn tồn tại một số vấn đề như cá dĩa bố mẹ không nuôi con sau khi cá tiêu hết noãn hoàng, hoặc thời gian tái thành thục của cá bố mẹ kéo dài vì phải nuôi con; trong sinh sản nhân tạo chưa chủ động tạo được nguồn cá bột với số lượng lớn do việc nuôi cá con phụ thuộc vào cá bố mẹ.
 
Vì vậy, việc tìm ra nguồn thức ăn mới, phù hợp với tính ăn của cá dĩa cũng như xác định thời điểm thích hợp để tách cá dĩa con ra khỏi cơ thể cá bố mẹ sớm có ý nghĩa rất lớn đến tỉ lệ sống của đàn cá con trong quá trình sản xuất giống hiện nay.
 
KS. Trương Thị Thúy Hằng (Phó trưởng phòng Phòng Nghiên cứu Công nghệ sinh học và Thủy sản, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao) cho biết, trong sản xuất giống cá dĩa, nhiều nước trên thế giới đã áp dụng phương pháp ấp trứng nhân tạo sử dụng nguồn thức ăn bên ngoài sau khi cá tiêu hết noãn hoàng để ương cá thay cho nhớt cá bố mẹ nên luôn tạo được nguồn cá bột với số lượng ổn định.
 
 
 Mô hình cá giả nuôi con
 
Cá dĩa không giống như các loài cá khác, sau khi tiêu hết noãn hoàng, cá dĩa bột bắt mồi một cách thụ động. Thời gian từ lúc phát triển phôi đến khi tiêu hết noãn hoàng, cá dĩa bột bám xung quanh mình cá để nhận dinh dưỡng từ nhớt cá bố mẹ một cách thụ động, giống như việc đứa trẻ nhận dinh dưỡng từ nguồn sữa mẹ. Lúc này, kích cỡ miệng cá rất nhỏ, chưa thể sử dụng thức ăn di động như moina, atermia, nên việc lựa chọn thức ăn phù hợp cho cá là rất cần thiết.
 
Mặt khác, cá dĩa là loài có tập tính sinh sản khá đặc biệt, sau quá trình sinh sản sẽ luôn bên cạnh ổ trứng chăm sóc, chúng sẽ dùng miệng ngậm con đến một vị trí sạch khác trên giá thể. Khi cá con rơi khỏi giá thể, cá bố mẹ sẽ dùng miệng ngậm con và phun trở lại giá thể. Sau 3 - 4 ngày cá con nở, có thể bơi lội tự do. Khi đó, cá con bám trên mình cá bố mẹ, nhận dinh dưỡng nhờ chất nhầy tiết ra từ mình cá bố mẹ. Thời kỳ nuôi con kéo dài 14 - 18 ngày, trong thời gian này, cá bố mẹ có màu sắc sậm, chúng không ăn hoặc ăn rất ít.
 
 
   Cá dĩa con được nuôi nhân tạo
 
Với mô hình sản xuất giống cá dĩa bằng phương pháp sinh học, nhóm nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao sẽ tiến hành các thí nghiệm xác định loại thức ăn phù hợp cho cá dĩa bột từ 0 – 14 ngày tuổi; xác định thời gian tách cá bột ra khỏi cá bố mẹ; sử dụng mô hình cá giả mô phỏng hoạt động nuôi con của cá dĩa bố mẹ. Qua đó tìm ra loại thức ăn phù hợp để thay thế nhớt cá dĩa bố mẹ, chủ động trong việc sinh sản nhân tạo để rút ngắn thời gian tái thành thục của cá bố mẹ và cung cấp cá con với số lượng lớn cho thị trường cá cảnh.
 
Quy trình và phương pháp thực hiện
 
Mô hình sinh học trong ương nuôi cá dĩa
 
 
 * Thuyết minh mô hình:
 
+ Sinh sản:
 
Cá dĩa thành thục tham gia sinh sản thành từng cặp đực – cái trong bể đẻ. Thông thường cặp cá dĩa trứng dọc theo giá thể, theo chiều từ dưới lên. Cá đực cũng theo lộ trình đó tiết tinh trùng để thụ tinh cho trứng. Những cặp cá đẻ tốt, đẻ trứng tập trung thành cụm khoảng 2 x 4cm, số lượng trứng khoảng 50 – 300 trứng.
 
+ Tách cá con ra khỏi cá bố mẹ:
 
Giai đoạn này rất quan trọng, quyết định tỉ lệ đàn cá con sau này. Thông thường cá dĩa bố mẹ sau khi sinh sản có tập tính chăm sóc vệ sinh ổ trứng cho đến khi cá nở. Bên cạnh đó cá con mới nở sẽ bơi và bám quanh mình cá bố mẹ để ăn chất nhờn, quá trình này mất từ 10 – 14 ngày làm sức khỏe cá bố mẹ suy giảm, thời gian tái thành thục kéo dài hơn.
 
Tiến hành tách cá con 5 ngày sau khi cá tiêu hết noãn hoàng. Lúc này tiến hành tách cá con ra bể ương riêng. Bố trí cá giả làm giá thể cho đàn cá mới tách, sử dụng thức ăn được kết dính vào cá giả bao gồm: nhớt ốc sên + lòng đỏ trứng + kết dính đặt trực tiếp vào bể để cá bám vào ăn dần.
 
Cá được 15 ngày tuổi, bổ sung thêm luân trùng hoặc ấu trùng artemia 4 lần/ngày để cá làm quen với việc bắt mồi. Thay nước thường xuyên 2 đến 3 lần/ngày sẽ kích thích cá ăn nhiều và mau lớn.
 
Sau 1 – 3 tháng tuổi bổ sung thêm trùn chỉ, cá 3 tháng tuổi sử dụng thức ăn chế biến: tim bò + probiotic + thyroxine + astaxanthin giúp cá tăng trưởng và tăng màu sắc.
 
Sau 6 – 8 tháng cá dãi đạt kích cỡ 6 – 8cm xuất bán thương phẩm, một số được tuyển chọn giữ lại làm cá hậu bị.
 
Ưu điểm của công nghệ, hiệu quả kinh tế
 
Mô hình ương nuôi cá dĩa bột đã áp dụng được phương pháp sinh học bằng cách tạo ra mô hình cá giả sử dụng nhớt ốc sên trộn lòng đỏ trứng gà vào thời điểm 5 ngày sau khi cá tiêu hết noãn hoàng. Kết quả cho thấy, tỉ lệ sống cá đạt 78,5 ± 3,6%, có thể sử dụng nguồn thức ăn nhớt ốc sên phối trộn với lòng đỏ trứng gà theo tỉ lệ 3:1 để thay thế nhớt cá dĩa bố mẹ. Việc tách cá dĩa con ra khỏi cơ thể cá bố mẹ ở thời điểm 5 ngày sau bám là phù hợp, tỷ lệ sống của cá đạt 87,2 ± 3,3%. Tỉ lệ sống và tăng trưởng về chiều dài của cá dĩa sau 3 tháng tuổi đạt 79,3 ± 11,9% và 3,6 ± 0,21cm. Cá có màu sắc đặc trưng của đàn cá dĩa, cá bơi lội linh hoạt, bắt mồi chủ động.
 
Theo KS. Trương Thị Thúy Hằng (trưởng nhóm nghiên cứu), trong mô hình này, việc bố trí cá giả vào ngày thứ 5 sau khi cá tiêu hết noãn hoàng cho thấy tỉ lệ sống của đàn cá dĩa con sau 3 tháng ương nuôi không có sự khác biệt so với cá dĩa bám tự nhiên, đồng thời làm tăng tỉ lệ tái thành thục ở các cặp cá bố mẹ. Bên cạnh đó, nguồn thức ăn nhân tạo sử dụng thay thế là nhớt ốc sên trộn với lòng đỏ trứng gà có thể cải thiện tỉ lệ sống của cá dĩa giống giai đoạn bắt mồi thụ động. Trong trường hợp cá dĩa không nuôi con hoặc cá con không bám mình cá bố mẹ có thể sử dụng thức ăn nhân tạo này để thay thế cho nhớt cá dĩa bố mẹ, làm tăng tỉ lệ sống trong khâu sản xuất giống.
 
Từ đó cho thấy, mô hình này có thể khắc phục được một số khó khăn trong quá trình sản xuất giống cá dĩa, tạo tiền đề cho hướng phát triển mới trong việc sản xuất giống. Việc áp dụng mô hình vào sản xuất sẽ giúp chủ động được nguồn cung cấp con giống với số lượng lớn cho thị trường, đồng thời giúp quá trình tái thành thục ở cặp cá bố mẹ diễn ra nhanh hơn, đảm bảo được điều kiện sức khỏe cho cá bố mẹ và cá con ở đợt sinh sản tiếp theo.
 
 
Bể nuôi vỗ cá dĩa bố mẹ và bể cho sinh sản cá dĩa 
 
KS. Trương Thị Thúy Hằng cho biết thêm, công nghệ ứng dụng trong mô hình này là phương pháp ấp trứng nhân tạo (tách trứng thụ tinh ấp riêng rẻ) và mô hình cá giả (sử dụng giá thể bằng chất liệu gốm, xi măng mô phỏng có hình dán và màu sắc giống cá thật, thức ăn nhân tạo được kết dính vào cá giả). Mô hình đã được áp dụng tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp công nghệ cao từ năm 2020 với đối tượng thả nuôi và sản xuất giống là cá dĩa đỏ 8cm. Thời gian nuôi từ tháng 6/2020 đến tháng 4/2021. Sản lượng cá trong thời gian triển khai là 20.004 con, trong đó 3.852 con có kích thước 7 – 8cm và 16.152 con kích thước 5 – 6cm. Chất lượng cá dĩa có màu sắc đẹp, đạt yêu cầu của thị trường cá cảnh.
 
Hiệu quả kinh tế của mô hình đạt được như sau:
 
+ Tổng sản lượng cho 1 năm sản xuất là 20.004 con, trong đó, cá dĩa 5 - 6cm = 16.152 con x 60.000 đồng/con = 969.120.000 đồng; cá dĩa 7 - 8cm = 3.852 con x 120.000 đồng/con = 462.240.000 đồng.
 
+ Tổng thu = 1.431.360 đồng
 
+ Lợi nhuận đạt 756.910.000 đồng/năm. Tỷ suất lợi nhuận là 1,12.
 

STT

Nội dung

Thành tiền

(đồng)

1


Vốn đầu tư cho phần vốn cố định cho 1 năm sản xuất (Khấu hao tài sản trong thời gian 4 năm)

90.500.000

2

Tổng vốn đầu tư cho con giống, nguyên vật liệu, thức ăn

383.950.000

3

Chi phí điện cho 1 năm

100.000.000

4

Tiền công lao động (2 người x 10 tháng x 5.000.000 đồng/tháng)

100.000.000

5

Tổng doanh thu trong năm

1.431.360

6

Lợi nhuận (Tổng thu – tổng chi)

756.910.000

7

Tỷ suất lợi nhuận (Lợi nhuận /chi phí)

1,12

  
Để triển khai mô hình (quy mô sản xuất 50 - 100m2), cần một số điều kiện như:
 
+ Bể kính 1,2 x 0,5 x 0,4m (8 cái)
 
+ Bể kính 0,6 x 0,5 x 0,4m (20 cái)
 
+ Khung sắt 2 tầng 1,2 x 0,5 x 0,4m (14 cái).
 
+ Máy sục khí 2HP: khu cá đẻ 1 cái và khu nuôi cá hậu bị 1 cái.
 
+ Cá dĩa đỏ 12cm: 50 con.
 
+ Thức ăn: lòng đỏ trứng gà (1 hộp), luân trùng (10 lít), sữa bột (1 hộp, 900g/hộp), chất kết dính tự nhiên (5kg), artemia (3 hộp, 425g/hộp), tim bò (50kg), trùn chỉ (100kg), tảo Spirulina (2 hộp, 200g/hộp), vitamin C (2kg), vitamin E (2kg).
 
Hiện nhóm nghiên cứu đang tiếp tục hợp tác với Sàn Giao dịch công nghệ Techport.vn (thuộc Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ – Sở KH&CN TP.HCM) để sẵn sàng chuyển giao mô hình cho các cơ sở, đơn vị, tổ chức có nhu cầu áp dụng sản xuất.
 
Thông tin chuyên gia, hỗ trợ
 
1. KS. Trương Thị Thúy Hằng
Điện thoại: 0973890239
Email: thuyhang.ahrd.712@gmail.com
 
2. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao
Địa chỉ: Ấp 1, Xã Phạm Văn Cội, Huyện Củ Chi, TP.HCM. Điện thoại: 028 38862726
 
3. Trung tâm Thông tin và Thống kê Khoa học và Công nghệ - Phòng Giao dịch Công nghệ
Địa chỉ: 79 Trương Định, P. Bến Thành, Q.1, TP. HCM
Điện thoại: (028) 3822 1635 - Fax: (028) 3829 1957
Email: giaodichcongnghe@cesti.gov.vn
Lam Vân (CESTI)
Scroll