Tổng quan về tình hình phát triển và thị trường các cây sâm thuộc chi Panax họ nhân sâm

( 245 đánh giá ) 5677
Liên hệ: Nguyễn Minh Đức
Địa chỉ: 19 Đường Nguyễn Hữu Thọ, Tân Hưng, Quận 7, Hồ Chí Minh
Điện thoại: 0908988820
Email: ducng@hcm.vnn.vn
Tên đơn vị: Trường Đại học Tôn Đức Thắng & Công ty CP Nhân sâm Việt VGC
  • I. Giới thiệu tóm tắt các loài sâm chi Panax họ Nhân sâm ( raliaceae) trên thế giới và tình hình th trư ng Nhân sâm
    Thuật ngữ “sâm” (ginseng) chính dnah hiện nay dùng để chỉ các loài thuộc chi Panax, thuộc họ Nhân sâm (Araliaceae). Loài Panax được sử dụng và quan tâm nghiên cứu nhiều nhất là Panax ginseng, thường được gọi là Nhân sâm, Sâm Triều Tiên (Korean ginseng). P. quinquefolius (Sâm Mỹ), P. notoginseng (Chinese ginseng, Tam Thất) và P. japonicus (Sâm Nhật) cũng là các cây Panax có giá trị và cũng đã được nghiên cứu nhiều. Theo Wen và CS [1], cho đến nay, có khoảng 18 loài thuộc chi Panax đã được phát hiện. Hầu hết các loài được phân bố ở Bắc Bán cầu ở Đông và Bắc Á, một phần nhỏ được trồng tại Bắc Âu và Bắc Mỹ.
     
    Nhân sâm (Panax ginseng CA. Meyer), là vị thuốc nổi tiếng, đứng đầu các vị thuốc quý của y học cổ truyền gồm “sâm, nhung, quế, phụ”. Nhân sâm đã được sử dụng hàng nghìn năm nay. Từ vị thuốc cổ truyền của Châu Á, Nhân sâm hiện nay được sử dụng trên toàn thế giới. Giá trị của Nhân sâm và hiệu quả trong chăm sóc và điều trị bệnh không những được chứng minh qua những công trình nghiên cứu khoa trên mọi lĩnh vực mà còn được người sử dụng và bệnh nhân tin tưởng. Hiện nay Nhân sâm đã được đưa vào dược điển của nhiều quốc gia trên thế giới. Thị trường Nhân sâm thế giới tăng trưởng hàng năm, với giá trị hàng tỉ USD mỗi năm, mang lại nguồn kinh tế đáng kể cho các quốc gia trồng sâm. Không những thế, tại một số quốc gia sử dụng Nhân sâm lâu đời như Hàn quốc, Trung quốc, Nhật bản … việc dùng sâm còn trở nên một nét lịch sử và văn hóa truyền thống độc đáo và lâu đời.
     
     
     Doanh số thị trường Nhân sâm trên thế giới 2010
     
    Các chế phẩm từ Nhân sâm
    Từ nguyên liệu Nhân sâm, rất nhiều sản phẩm phong phú và đa dạng, được chế biến và cung cấp cho thị trường như sâm tẩm mật ong, cao sâm, bột sâm, trà sâm, viên sâm, nước uống tăng lực, mỹ phẩm chứa sâm, dầu gội đầu chứa Nhân sâm… Những sản phẩm từ Nhân sâm đã đáp ứng rộng rãi người tiêu dùng, làm tăng giá trị gia tăng của Nhân sâm, mang lại nguồn lợi kinh tế không nhỏ cho các quốc gia trồng sâm.
     
     
    Các sản phẩm phong phú từ Nhân sâm trên thị trường 
     
    Trong lĩnh vực dược phẩm, một thí dụ về việc xây dựng thương hiệu thành công và mang lại giá trị kinh tế - điều trị từ Nhân sâm là chiết xuất Nhân sâm G115® và chế phẩm Pharmaton®. Chiết xuất Nhân sâm G115® được công ty Pharmaton SA, ở Lugano Thụy sĩ nghiên cứu và phát triển. G115® là chiết xuất Nhân sâm chuẩn hóa chứa 4% hoạt chất ginsenosid. Chất lượng của chiết xuất Nhân sâm G115® được kiểm tra (định tính, định lượng), tiêu chuấn hóa chặt chẽ dựa vào hàm lượng tổng cộng của saponin theo phương pháp HPLC hiện đại. Trên nền tảng chất lượng được kiểm soát, chiết xuất Nhân sâm G115® đã được đưa vào thử nghiệm trong hàng chục công trình nghiên cứu dược lý và lâm sàng, cho thấy những tác dụng tiêu biểu của Nhân sâm như tăng lực, tăng sức chịu đựng, tăng khả năng hồi phục nhanh chóng sau vận động, cải thiện chức năng nhận thức, tăng cường miễn dịch, làm giảm các triệu chứng mãn kinh trên phụ nữ ... Chiết xuất Nhân sâm G115® hiện đang được công ty Boehringer Ingelheim bào chế thành nhiều dạng chế phẩm Pharmaton® khác nhau và phân phối tại nhiều quốc gia trên thế giới, mang lại doanh thu rất lớn.
     
    II. Giới thiệu cây “quốc bảo” Sâm Việt Nam 
    Sâm Việt Nam, còn được gọi là Sâm Ngọc Linh, Sâm Khu 5…, là một cây thuốc dấu của người dân tộc Sê-Đăng sống trên các dãy núi thuộc rặng Trường Sơn, được xem là một cây thuốc trị bá bệnh, tăng lực, tăng sức bền, sự dẻo dai …Sâm Việt Nam được phát hiện vào năm 1973 và sau đó vào năm 1985 được xác định là một loài Panax mới của thế giới với tên khoa học là Panax vietnamensis Ha et Grushv., họ Nhân Sâm (Araliaceae) 
     
     
    Phần thân khí sinh với tán quả và bộ phận dưới mặt đất (thân rễ + rễ củ) của Sâm Việt Nam thiên nhiên
     
    Độc tính đường uống 
    Độc tính cấp đường uống của Sâm Việt Nam rất thấp và an toàn khi sử dụng dài ngày. Dmax của bột chiết toàn phần là 34 g/kg thể trọng và của saponin toàn phần là 10,6 g/kg thể trọng (Dmax: liều tối đa có thể cho uống qua kim nhưng không gây chết súc vật thử nghiệm).
     
    Tác dụng tăng lực-hồi phục sức
    Bột chiết Sâm Việt Nam thể hiện tác dụng tăng lực, chống nhược sức ở khoảng liều từ 5-100 mg/kg. So sánh ở cùng liều sử dụng 50 mg/kg thể trọng, bột chiết Việt Nam thể hiện tác dụng tăng lực-chống nhược sức trên chuột nhắt trắng tốt hơn bột chiết Nhân sâm Triều Tiên. Cơ chế tác dụng tăng lực của Sâm Việt Nam tương tự như Nhân sâm Triều Tiên là làm gia tăng sự sử dụng chất nền lipid có năng lượng cao và hạn chế sự sử dụng glucose. Ngoài ra, trong các thực nghiệm stress nhiệt độ nóng hoặc lạnh, bột chiết Sâm Việt Nam liều 100 mg/kg thể trọng làm phục hồi thể lực của súc vật thử nghiệm trong các thực nghiệm bơi tức thời và dài ngày (sau 7, 14 ngày bị stress nhiệt độ).
     
    Tác dụng trên hệ thần kinh TW 
    Sâm Việt Nam thể hiện tác động trên hệ thần kinh TW tùy theo liều sử dụng. Ở khoảng liều < 500 mg/kg thể trọng, Sâm Việt Nam có tác dụng kích thích hệ thần kinh TW, làm gia tăng tính vận động tự nhiên, rút ngắn thời gian ngủ của barbital. Ở khoảng liều > 500 mg/kg thể trọng, Sâm Việt Nam thể hiện tác dụng ức chế hệ thần kinh TW, làm giảm tính vận động tự nhiên và kéo dài thời gian ngủ của barbital.
     
    Tác dụng cải thiện trí nhớ 
    Các cây thuốc thuộc họ Nhân Sâm (Araliaceae) mà tiêu biểu là Nhân sâm (Panax ginseng C.A. Meyer) đã được biết đến như những vị thuốc có tác dụng bồi bổ cơ thể, cải thiện nhận thức, trí nhớ và phục hồi hoạt động não bộ trong một số bệnh lý thần kinh do lão hóa (antisenility effect) như: bệnh Alzheimer, Parkinson, đột quỵ do thiếu máu cục bộ não …. Hợp chất saponin (ginsenosides) và các ginsenoside-Rb1, -Rg1, -Rg2 được xác định là những hoạt chất quyết định tác dụng cải thiện trí nhớ của Nhân sâm trên các mô hình thực nghiệm gây suy hỏng trí nhớ bằng scopolamin, bằng ethanol hay bằng shock điện.
    Bột chiết Sâm Việt Nam ở liều 35 mg/kg thể trọng và saponin toàn phần ở liều 10 mg/kg thể trọng (được sử dụng liên tục trong 80 ngày theo đường dinh dưỡng trộn trong thực phẩm) làm điều hòa hoạt động của vỏ não, gia tăng khả năng học tập-ghi nhớ (rút ngắn tiềm thời phân biệt âm thanh, ánh sáng; rút ngắn giai đoạn phục hồi phản xạ).
    Công trình hợp tác nghiên cứu giữa Đại học Y Dược Toyama (Nhật Bản) và Trung tâm Sâm và Dược liệu TP.HCM, sơ bộ cho thấy Sâm Ngọc Linh thể hiện tác động làm gia tăng khả năng học tập (learning) và khả năng ghi nhớ (memory) của súc vật bình thường và súc vật bị gây suy giảm khả năng học tập-ghi nhớ bằng scopolamin trên các thực nghiệm phản xạ tránh né thụ động (passive avoidance test) và thực nghiệm mê cung nước (Morris water maze)
     
    Tác dụng chống stress và cơ chế tác động 
    Sự hằng định nội môi (homeostasis) được định nghĩa là khuynh hướng ổn định những trạng thái và chức năng sinh lý bình thường của cơ thể sinh vật. Stress phá hủy sự hằng định nội môi dẫn đến những rối loạn về chức năng sinh lý và là yếu tố tiên phát của những bệnh lý liên quan đến sức khỏe con người. Stress là một trong những nguyên nhân của những căn bệnh của thời đại công nghiệp như: trầm cảm, tim mạch, ung thư, suy giảm khả năng miễn dịch… Kết quả sàng lọc những dược chất có nguồn gốc tự nhiên có tác dụng phục hồi sự hằng định nội môi, chống lại stress (được gọi theo thuật ngữ khoa học là plant adaptogen) cho thấy những cây thuốc thuộc họ Araliaceae, tiêu biểu là Nhân sâm Triều Tiên, là những ‘plant adaptogen’ điển hình (Brekhman, 1980; Wagner & cs., 1994). Nhân sâm và những hoạt chất ginsenosid, ngoài tác dụng tăng lực, kích hoạt trục HPA, còn có tác dụng cải thiện những thay đổi sinh lý bệnh gây bởi những kích thích stress vật lý. Tác dụng chống stress của Sâm Việt Nam được nghiên cứu trên các thực nghiệm gây stress vật lý và stress tâm lý, có đối chiếu so sánh với tác dụng của Nhân sâm và trọng tâm nghiên cứu là tìm hiểu hoạt chất có vai trò quyết định tác dụng cùng cơ chế tác động theo hướng dược lý thần kinh.
     
    a- Tác dụng của Sâm Việt Nam trên stress vật lý
    Trên thực nghiệm gây nhiễm xạ tia cobalt trên chuột nhắt trắng ở liều chiếu toàn thân 4-5 Gy (tương đương với 400-500 Rad), bột chiết Sâm Việt Nam (liều uống 50 mg/kg thể trọng) có tác dụng bảo vệ cơ thể súc vật thử nghiệm chống lại tác hại của tia xạ, làm phục hồi số lượng hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và thể hiện rõ nhất ở thời điểm 14 ngày sau chiếu xạ.
    Bột chiết Sâm Việt Nam (liều 100 mg/kg) có tác dụng làm gia tăng ngưỡng đáp ứng của súc vật thử nghiệm đối với stress nóng (37-42 oC) và lạnh (5 oC); làm kéo dài thời gian sống sót của súc vật thử nghiệm; duy trì sự phát triển bình thường của súc vật thử nghiệm khi tiếp xúc dài ngày với stress nhiệt độ (stress nóng 37 oC trong 10 ngày và stress lạnh 5 oC trong 10 ngày).
    Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra cho tác dụng chống stress của Sâm Việt Nam trong ứng dụng điều trị là: Sâm Việt Nam có tác dụng cải thiện đối với những bệnh lý gây bởi những kích thích stress thuộc về tâm lý như loét dạ dày, sự mất ngủ? Các stress tâm lý được sử dụng trong nghiên cứu tác dụng của Sâm Việt Nam bao gồm: stress cô lập (isolation stress), stress tâm lý sử dụng hộp truyền tin giao tiếp (communication box) thực hiện trên chuột nhắt trắng và stress gây sợ hãi có điều kiện (conditioned fear stress) thực hiện trên chuột cống trắng.
     
    b- Tác dụng của Sâm Việt Nam trên stress tâm lý-Những cơ chế dược lý thần kinh có liên quan
    (i)Tác dụng của Sâm Việt Nam trên sự mất cảm giác đau gây bởi stress tâm lý
    Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy cơ thể sinh vật bị mất cảm giác đau khi tiếp xúc với các yếu tố gây stress. Sự mất cảm giác đau này được điều hòa bởi hai cơ chế: 1) phụ thuộc vào thụ thể opioid, (opioid mechanisms) hay 2) không phụ thuộc vào thụ thể opioid (non-opioid mechanisms) [Carmody, 1983; Curzon, 1986; Hart, 1983; Izumi, 1983]. Bột chiết Sâm Ngọc Linh, saponin toàn phần và majonosid-R2 được cho uống 1 giờ hoặc tiêm phúc mô 30 phút trước khi tiếp xúc với stress có tác dụng hồi phục lại cảm giác đau của súc vật, tương tự như tác dụng của chất đối kháng với thụ thể opioid naloxon. Theo báo cáo của Takahashi & cs. (1992), bột chiết Nhân sâm không thể hiện tác dụng hồi phục trên sự mất cảm giác đau của súc vật bị stress tâm lý.
    Những nghiên cứu trên cơ chế tác động hồi phục lại cảm giác đau của súc vật bị stress cho thấy tác động của majonosid-R2 trên sự mất cảm giác đau gây bởi stress tâm lý có thể được chi phối bởi ít nhất 2 cơ chế: 1) tác động trực tiếp (đối kháng) lên thụ thể opioid tại não bộ hay tủy sống hoặc 2) tác động gián tiếp lên thụ thể opioid tại não bộ thông qua tác động chủ vận lên hệ thống GABA-A.
     
    (ii) Tác dụng của Sâm Việt Nam trên sự loét dạ dày gây bởi stress tâm lý
    Hội chứng loét dạ dày lâm sàng thường phát xuất từ những nguyên nhân thuộc về tâm lý. Ichimaru (1987) và Nomura & cs. (1994) đã chứng minh rằng stress tâm lý sử dụng hộp truyền tin giao tiếp gây ra những tổn thương ở dạ dày của súc vật thử nghiệm giống như những triệu chứng lâm sàng.
    Sự tiếp xúc với stress tâm lý trong 16 giờ gây ra những tổn thương ở dạ dày (76%) đạt ý nghĩa thống kê so với nhóm không bị stress (17,5%). Bột chiết Sâm Việt Nam và majonosid-R2 có tác động bảo vệ đối với những tổn thương ở dạ dày gây bởi stress tâm lý, tương tự như thuốc đối chiếu diazepam (chất chủ vận lên hệ thống GABA-A) và naloxon (chất đối kháng với thụ thể opioid). Bột chiết Nhân sâm Triều Tiên chưa thể hiện điển hình tác dụng bảo vệ đối với những tổn thương ở dạ dày của súc vật bị stress. Những kết quả trên một lần nữa khẳng định vai trò của hệ thống GABA-A và thụ thể opioid trong cơ chế tác động của majonosid-R2 trên tổn thương ở dạ dày gây bởi stress tâm lý.
     
    (iii) Tác dụng của Sâm Việt Nam trên sự rút ngắn giấc ngủ pentobarbital gây bởi stress tâm lý 
    Bột chiết Sâm Việt Nam, saponin toàn phần và majonosid-R2 làm hồi phục lại giấc ngủ pentobarbital bị rút ngắn bởi stress tâm lý nhưng không ảnh hưởng lên giấc ngủ pentobarbital ở súc vật bình thường không bị stress. Tác động này của Sâm Ngọc Linh khác với thuốc đối chiếu diazepam: làm kéo dài giấc ngủ pentobarbital ở cả 2 cơ địa súc vật bình thường và súc vật bị stress. Bột chiết Sâm Triều Tiên và naloxon không thể hiện tác động hồi phục lại giấc ngủ pentobarbital gây bởi stress tâm lý.
     
    (iv) Cơ chế liên quan đến bề mặt liên kết neurosteroid trên thụ thể GABA-A
    Flumazenil, chất đối kháng với thụ thể GABA-A, phá hủy tác động điều hòa của majonosid-R2 trong giấc ngủ pentobarbital bị rút ngắn bởi stress tâm lý. Điều này một lần nữa khẳng định rằng tác động chủ vận lên hệ thống GABA-A là một trong những cơ chế tác dụng của majonosid-R2 trong các rối loạn bệnh lý gây bởi stress thông qua: 1) sự hoạt hóa các chức năng của hệ thống này, hoặc 2) tác động chủ vận lên các bề mặt liên kết.
    Đặt cơ sở từ cấu trúc hóa học của majonosid-R2 với nhân steroid tương tự như các neurosteroid, có thể dự đoán rằng majonosid-R2 có khả năng gây những tác động chủ vận lên bề mặt liên kết neurosteroid của hệ thống GABA-A. Majonosid-R2, tương tự như allo-tetrahydrodeoxycorticosteron (allo-THDOC), neurosteroid chủ vận trên thụ thể GABA-A, khi được tiêm phúc mô hay tiêm cục bộ vào não th;ất có tác dụng hồi phục lại giấc ngủ pentobarbital bị rút ngắn bởi stress cô lập. Tác động này bị phá hủy bởi pregnenolon sulfat, neurosteroid đối kháng với thụ thể GABA-A. Mặc khác, pregnenolon sulfat khi được tiêm vào não thất gây sự rút ngắn giấc ngủ pentobarbital trên cơ địa súc vật bình thường. Tác động này bị đối kháng bởi allo-THDOC và majonosid-R2. Các kết quả trên cho thấy majonosid-R2 thể hiện tác động tương tự như neurosteroid chủ vận trên hệ thống GABA-A theo hướng làm gia tăng hàm lượng của neurosteroid chủ vận trên hệ thống GABA-A trong não.
     
    - Tác dụng chống trầm cảm
    Ảnh hưởng của stress tâm lý trên mức độ trầm cảm được theo dõi bằng thực nghiệm của Porsolt (forced swimming test) phối hợp với stress cô lập. Bột chiết Sâm Việt Nam (liều uống 100 mg/kg) và majonosid-R2 (liều tiêm phúc mô 12,5 mg/kg) thể hiện tác dụng ức chế sự gia tăng mức độ trầm cảm gây ra do stress cô lập, tương tự như các thuốc chống trầm cảm desipramin (20 mg/kg) và fluoxetin (30 mg/kg). Bột chiết Nhân sâm Triều Tiên (liều uống 100 mg/kg) chưa thể hiện tác dụng ức chế sự gia tăng mức độ trầm cảm do stress cô lập.
     
    - Tác dụng giải lo âu 
    Thực nghiệm buồng tối-sáng (light-dark box test) phối hợp với stress cô lập được dùng để nghiên cứu tác dụng giải lo âu của Sâm Việt Nam. Majonosid-R2 thể hiện tác động giải lo âu nguyên nhân do stress ở liều 12,5 mg/kg tương tự như thuốc đối chiếu diazepam. Những nghiên cứu về cơ chế tác động cho thấy beta-CCE (chất đối kháng thụ thể benzodiazepin-GABA-A và có tác dụng gây lo âu-bồn chồn) làm mất các tác dụng giải lo âu của majonosid-R2 và diazepam. Những kết quả trên một lần nữa khẳng định vai trò của hệ thống GABA-A trong cơ chế tác động của majonosid-R2.
     
    - Tác dụng chống oxy hóa in vitro và in vivo 
    Những kết quả nghiên cứu in vitro đã chứng tỏ rằng các cao chiết rễ và lá Sâm Việt Nam đều thể hiện một số hoạt tính chống các gốc tự do, đặc biệt là hoạt tính đánh bắt gốc superoxid và hoạt tính chelat ion Fe. Phân đoạn cao chiết ether và phân đoạn nước thể hiện tác dụng đánh bắt gốc tự do mạnh hơn so với các cao chiết khác. Ngoài ra khi khảo sát so sánh hoạt tính đánh bắt gốc tự do DPPH của bột chiết Sâm Ngọc Linh với saponin toàn phần và hoạt chất chính majonosid-R2 ở cùng khoảng nồng độ thử cho thấy bột chiết Sâm Việt Nam thể hiện tác dụng mạnh hơn. Những kết quả này cho thấy thành phần saponin chưa phải là nhóm hợp chất quyết định hoạt tính chống oxy hóa in vitro của Sâm Việt Nam mà có thể là những nhóm hợp chất tan trong nước hoặc ít phân cực tan trong ether. 
    Các yếu tố gây stress vật lý và stress tâm lý làm gia tăng hàm lượng gốc tự do của oxy cao hơn 1,5 đến 2 lần so với đối chứng và gây nên tình trạng mất cân bằng của các dạng oxy hoạt động và các chất chống oxy hóa nội sinh gọi là stress oxy hóa. Stress oxy hóa gây ra những phản ứng peroxy hóa lipid của màng tế bào, dẫn đến những tổn thương về chức năng và cấu trúc của màng tế bào cả ngoại biên lẫn hệ thần kinh TW và là yếu tố bệnh sinh của những căn bệnh liên quan đến tuổi già như bệnh tim mạch, đái tháo đường, các chứng viêm, nha chu viêm, đục thủy tinh thể, ung thư, thoái hóa thần kinh (bệnh Parkinson, bệnh Alzheimer)…Stress cô lập trong 4-6 tuần làm tăng hàm lượng malonyl dialdehyd (MDA) trong não song song với tăng sự hình thành gốc tự do nitric oxid (NO) và làm giảm hàm lượng chất chống oxy hóa nội sinh glutathion (GSH). Saponin Sâm Ngọc Linh (liều uống 15-25 mg/kg) làm giảm điển hình sự gia tăng hàm lượng MDA gây bởi stress. Majonosid-R2 (liều uống 10-50 mg/kg) ức chế sự gia tăng hàm lượng MDA, NO và ức chế sự giảm hàm lượng GSH gây bởi stress tâm lý. Kết quả này một lần nữa khẳng định vai trò của majonosid-R2 trong tác dụng chống stress của Sâm Việt Nam và cơ chế làm gia tăng sự sinh tổng hợp chất chống oxy hóa nội sinh glutathion là một trong những cơ chế tác động chống oxy hóa của majonosid-R2.
     
    - Tác dụng bảo vệ gan và cơ chế tác động 
    a- Tác dụng bảo vệ tế bào gan tránh tác kích của độc chất 
    Bột chiết và saponin toàn phần Sâm Việt Nam được cho uống 7 ngày trước thực nghiệm gây tổn thương gan cấp bằng CCl4.
    Các gốc tự do là một trong những sản phẩm chuyển hoá ở gan của CCl4 hoặc ethanol khi được đưa vào cơ thể bằng đường uống. Các gốc tự do này là nguyên nhân gây ra sự peroxy hoá lipid và kết quả của quá trình này là làm tăng MDA. Bột chiết Sâm Việt Nam ở liều 100-200 mg/kg có tác dụng ức chế sự gia tăng hàm lượng MDA gây bởi CCl4 hoặc ethanol. Saponin toàn phần ở liều 100-200 mg/kg và majonosid-R2 ở liều tiêm phúc mô 10-50 mg/kg thể trọng cũng thể hiện tác dụng tương tự.
    Saponin toàn phần Sâm Việt Nam cũng như hoạt chất chính majonosid-R2 ức chế các phản ứng peroxy hóa lipid màng tế bào gan trên cả hai hệ oxy hóa NADPH và hệ ascorbat do đó có thể có tác dụng bảo vệ tế bào gan khỏi những tổn thương oxy hóa do gốc tự do
     
    b- Tác dụng gia tăng hoạt năng cytocrom-P450 
    Trên thực nghiệm in vitro, Sâm Việt Nam còn ức chế hoạt năng của enzym CYP2E1 trong ty thể gan chuột nhắt trắng và người.
    Saponin toàn phần Sâm Việt Nam cũng như hoạt chất chính majonosid-R2, làm gia tăng hàm lượng của cytocrom P-450 trong ty thể, liên kết với cytocrom P-450 và gia tăng hoạt năng của cytocrom P-450 trong các phản ứng oxy hóa khử. Tác dụng của saponin toàn phần Sâm Việt Nam thể hiện mạnh hơn majonosid-R2 trên cả hai cơ địa súc vật bình thường và súc vật bị gây tổn thương gan bằng CCl4.
     
    c- Tác dụng bảo vệ gan theo hướng ức chế sự tạo thành TNF- α (tumor necrosis factor) 
    Majonosid-R2 (10-50 mg/kg), tương tự như silymarin (100 mg/kg) có tác dụng ức chế sự phân mảnh ADN, giảm đậm độ chromatin trong nhân tế bào, ức chế sự gia tăng các transaminase và ức chế sự tạo thành TNF – α trong huyết thanh chuột bị gây hoại tử tế bào gan bởi D-GalN/LPS.
    Thực nghiệm in vitro trên sự hoại tử gây chết tế bào gan bởi D-GalN/TNF-α với IC50 của majonosid-R2 là 82,4 mM một lần nữa khẳng định tác dụng bảo vệ tế bào gan của majonosid-R2 thể hiện thông qua hai cơ chế: 1) ức chế gián tiếp sự tạo thành TNF- αthông qua các đại thực bào được hoạt hóa, và 2) ức chế trực tiếp sự hoại tử gây chết tế bào gan của TNF-α.
     
    - Tác dụng kháng khuẩn 
    Sâm Việt Nam thể hiện tính kháng khuẩn trên các chủng vi khuẩn Gram (+), ở nồng độ 50-100 mg/ml bột chiết Sâm Việt nam ức chế 14/28 chủng vi khuẩn Staphylococcus
    gây bệnh. Đặc biệt là trên chủng vi khuẩn Streptococci gây bệnh viêm họng (Streptococci type α-hemolyse), với độ nhạy cảm của 21 chủng vi khuẩn Streptococci được xác định như sau: M.I.C. S (S: nhạy cảm) > 0,4 mg/ml và M.I.C. R (R: đề kháng) < 3,125 mg/ml. Hoạt tính kháng khuẩn của bột chiết Sâm Ngọc Linh mạnh hơn tetracyclin và tương đương với streptomycin, erythromycin, ampicillin, lincocin và bactrim. Sâm Việt Nam có tác động hiệp lực với một số kháng sinh thông dụng như: erythromycin (100%), ampicillin (94,4%), tetracyclin (85,7%), bactrim (85,7%), và không gây ảnh hưởng trên hệ vi khuẩn lành tính ở ruột như các kháng sinh. Ngoài ra, hai hợp chất polyacetylen được chiết tách từ Sâm Việt Nam là panaxynol và heptadeca-1,8-dien-4,6-diyn-3,10-diol thể hiện tính kháng khuẩn trên Staphylococcus aureus mạnh gấp 10-20 lần so với oxytetracyclin, chloramphenicol và erythromycin và tính kháng nấm trên Candida albicans PCM 1409 PZH tương đương với natamycin.
     
    - Tác dụng kích thích miễn d ch không đặc hiệu
    Bột chiết Sâm Việt Nam ở liều 500 mg/kg và majonosid-R2 ở liều 50 mg/kg thể trọng có tác dụng bảo vệ > 75% súc vật thử nghiệm đối với liều gây chết của Escherichia coli ATCC 25922 (3 x 108 vi khuẩn/ml). Bột chiết Sâm Việt Nam (100-500 mg/kg) và majonosid-R2 (10-50 mg/kg) có tác dụng làm gia tăng chỉ số thực bào in vitro và in vivo trong các thực nghiệm gây suy giảm miễn dịch bởi cyclophosphamid hoặc bởi stress tâm lý.
     
    - Tác dụng hiệp lực với thuốc điều tr ung thư 
    a- Thực nghiệm in vitro
    Thực nghiệm sàng lọc các chất dự phòng kháng ung thư do hóa chất trên 6 saponin phân lập từ Sâm Việt Nam cho thấy majonosid-R2 thể hiện tác dụng ức chế điển hình nhất trên kháng nguyên Epstein-Barr virus được hình thành bởi chất làm tăng sự phát triển của ung thư 12-O-tetradecanoylphorbol-13 acetate (TPA) trên tế bào Raji.
     
    b- Thực nghiệm in vivo
    Majonosid-R2 (liều 85-510 nanomol/da chuột) ức chế sự tạo thành các u nhú trong thực nghiệm gây ung thư da hai giai đoạn trên chuột nhắt trắng sử dụng 7,12-dimethyl-benz-[α] anthracene (DBMA) là chất kích hoạt và 12-O-tetradecanoylphorbol-13 acetate (TPA) hay fumonisin B1 (chất mycotoxin chiết xuất từ Fusarium moniliforme) là chất làm tăng sự phát triển của ung thư.
    Majonosid-R2 (liều 1,26 mg/chuột/tuần và sử dụng trong 25 tuần) ức chế sự tạo thành các u tăng sản ở gan (giảm 55-60% so với chứng) trong thực nghiệm gây ung thư gan hai giai đoạn trên chuột nhắt trắng sử dụng N-nitrosodiethylamine (DEN) là chất kích hoạt và phenobarbital (PB) là chất làm tăng sự phát triển của ung thư.
    Majonosid-R2 thể hiện tác dụng kháng ung thư thể hiện qua tác động ức chế cả giai đoạn bắt đầu và giai đoạn tiến triển của ung thư biểu mô da chuột được gây bằng nitric oxide NOR1 là chất kích hoạt và phối hợp với 12-O-tetradecanoylphorbol-13 acetate (TPA) là chất làm tăng sự phát triển của ung thư hay bằng sự phối hợp peroxynitrite với TPA.
     
    - Tác dụng trên hệ tim mạch, cholesterol huyết và lipid huyết 
    Bột chiết Sâm Việt Nam có tác động điều hòa hoạt động tim mạch, theo hướng kích thích dẫn truyền xung động thần kinh tim, nâng cao huyết áp trong các trường hợp hạ áp do mất máu. Bột chiết Sâm Việt Nam ở liều 50-500 mg/kg thể hiện tác dụng phòng chống xơ vữa động mạch thực nghiệm gây bằng Triton WR-1339 theo cơ chế giảm cholesterol huyết, giảm lipid toàn phần và lipoprotein, tăng hàm lượng HDL-cholesterol.
     
    - Tác dụng kiểu nội tiết tố sinh dục và cơ chế tác động
    Bột chiết Sâm Việt Nam có tác dụng nội tiết tố sinh dục (tác dụng androgen và tác dụng estrogen) trên chuột bình thường và chuột bị giảm năng sinh dục ở khoảng liều 60-120 mg/kg thể trọng trong thời gian sử dụng 9-15 ngày, tuy nhiên các tác dụng này không mạnh lắm so với propionate testosteron hay benzoate estradiol. Trên cơ địa súc vật bình thường, Sâm Việt Nam thể hiện hiệu lực ức chế khi sử dụng ở liều cao (240 mg/kg) và thời gian dài (> 30 ngày). Phương cách tác động nội tiết của Sâm Việt Nam thông qua việc kích thích hoạt động của tuyến yên.
     
    - Tác dụng hiệp lực với thuốc điều tr bệnh đái tháo đường
    Bột chiết Sâm Việt Nam ở liều 50 mg/kg với thời gian tác dụng tối ưu là 90 phút sau khi uống có tác dụng làm hạ đường huyết trên hai thực nghiệm gây quá tải glucose ở thỏ và cắt bỏ toàn phần tụy tạng ở chó. Bột chiết Sâm Việt Nam ở liều 50 mg/kg có tác dụng hiệp lực với sulfamid hạ đường huyết (Diabinese, viên nén chứa 250 mg chlopropamid), làm giảm nửa liều sử dụng của thuốc này.
     
    - Tác dụng giảm đau-kháng viêm
    Bột chiết Sâm Việt Nam (liều 180 mg/kg) có tác dụng kháng viêm và giảm đau trên thực nghiệm gây u hạt bằng cấy viên bông cotton, thực nghiệm gây đau do đĩa nóng và thực nghiệm gây đau xoắn bụng bằng acic acetic. Bột chiết Sâm Việt Nam có tác dụng tương đương với bột chiết Nhân sâm Triều Tiên và theo cơ chế kích thích hoạt động của
    trục tuyến yên-tuyến thượng thận, làm tăng tiết corticoid của tuyến thượng thận, một trong những nội tiết tố tham gia vào đáp ứng kháng viêm.

    (Chuyển nhượng quyền sử dụng, chuyển giao toàn phần...)



    Scroll