Công nghệ nano và tinh chế hoạt chất từ dược liệu ứng dụng trong các sản phẩm phòng chống SARS-CoV-2

Tùy theo nhu cầu, doanh nghiệp có thể đặt hàng mức độ tinh khiết của loại dược chất mong muốn, để có thể áp dụng quy trình sản xuất phù hợp, hiệu quả.
Công nghệ nano được ứng dụng để sản xuất các loại sản phẩm tinh dầu thương mại từ dược chất đã được chiết xuất từ thảo dược, nhằm tăng khả năng diệt khuẩn, thẩm thấu, phân tán giúp tăng phạm vi và hiệu quả sử dụng theo hướng sản xuất quy mô công nghiệp. Tính hữu ích của công nghệ nano là đảm bảo độ tinh khiết của dược chất cao, không hề lẫn dung môi.
 
Về thời gian sử dụng, sản phẩm nano thảo dược nếu được phun lên khẩu trang thì hiệu quả gần như không thay đổi trong vòng 8 giờ. Nếu sử dụng kết hợp các chất bám dính sinh học như nhựa thông thì cho hiệu quả trên vải khoảng 8 ngày. Nếu muốn lâu hơn thì doanh nghiệp có thể ứng dụng công nghệ vi bao để kéo dài hạn sử dụng, từ 3-6 tháng trở lên, hoặc những công nghệ khác.
 
Theo nhà cung ứng công nghệ, các sản phẩm nano thảo dược thường đạt kích cỡ những hạt siêu nhỏ 15-20 nm. Khi đăng ký sử dụng sẽ ở dưới dạng mỹ phẩm để khả năng thương mại hóa được cao hơn. Đây là nền tảng để triển khai ứng dụng các dược chất có khả năng ức chế Covid-19 mạnh mẽ như Terpineol (TA2), Linalool (TA19). Cineol (TA1)… hoặc những dược chất có tác dụng sát khuẩn cực mạnh như D-limonene trong bưởi, Terpinen-4-ol hay Eugenol ở tràm trà và hương nhu, Azadirachtin ở xoan Ấn Độ…
 
Nguồn dược chất được chiết xuất từ thảo dược bằng công nghệ phân tách phù hợp để lấy riêng từng hoạt chất theo độ tinh khiết cao, như nhiệt độ sôi, nhiệt độ kết tinh hay độ hòa tan tùy vào sự khác biệt về lý tính cũng như hóa tính của các chất. Chẳng hạn như tách Terpineol ở nhiệt độ sôi 219oC, nhiệt độ kết tinh 18oC; tách Linalol ở nhiệt độ sôi 198oC, nhiệt độ kết tinh 20oC… trong điều kiện kiểm soát áp suất, nhiệt độ, độ kết tinh.
 
Mặt khác, khi chia theo phân đoạn có nhiệt độ sôi tăng, thì tràm gió ứng dụng công nghệ phân tách đoạn (áp suất khoảng 100-760 mmHg) có thể thu được 4 loại có thành phần và màu sắc khác nhau. Các phân đoạn tràm gió (nhẹ, trung bình, nặng) có 3-5 hoạt chất chiếm tỷ lệ lớn. Do đó, tùy theo loại hoạt chất muốn lấy có độ tinh khiết mong muốn, sẽ áp dụng loại phân đoạn phù hợp.
 
 
 
Quá trình tinh chế các hợp chất trong tinh dầu còn có thể áp dụng công nghệ chưng cất chân không phân đoạn, đảm bảo 2 yếu tố: áp suất và nhiệt độ. Tuy nhiên có một số hợp chất, cần dùng công nghệ làm lạnh phân đoạn. Ví dụ với những hợp chất có nhiệt độ sôi tương đương nhau, không thể dùng chưng cất chân không mà phải dùng công nghệ thứ hai. Các hợp phần này được đưa xuống nhiệt độ -15oC để kết tinh, sau đó làm lạnh trở lại ở 1,2 – 1,5oC, những chất không còn tinh thể như D-limonene sẽ tách ra, và lấy được tinh thể còn lại với độ tinh khiết trên 98%, có thể lên đến 99,5%.
 
Nhìn chung, các công nghệ chưng cất chân không phân đoạn và làm lạnh phân đoạn để đạt được độ tinh khiết như mong muốn đều có thể thương mại hóa được. Tùy theo nhu cầu, doanh nghiệp có thể đặt hàng mức độ tinh khiết của loại dược chất mong muốn, như có sản phẩm chỉ cần độ tinh khiết dược chất đạt 60% trong khi có sản phẩm cần độ tinh khiết dược chất đến 98%, vì độ tinh khiết càng cao thì quy trình càng tốn nhiều chi phí đầu tư và vận hành, từ đó có thể khảo sát và áp dụng quy trình sản xuất phù hợp, hiệu quả.
Hồng Linh
Scroll